Hotline: 0931 643 075      Email: ttvietnammedia@gmail.com

spot_img

Nhiều chủ trương, chính sách kịp thời ứng phó với dịch bệnh, phát triển kinh tế đi đôi với chăm lo phúc lợi, an sinh xã hội

XEM NHIỀU NHẤT

spot_img

CÙNG CHUYÊN MỤC

Thực hiện chương trình Kỳ họp thứ hai – Quốc hội khóa XV, chiều nay 10/11, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trực tiếp trả lời chất vấn liên quan đến Nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội. Báo cáo của Bộ trưởng Đào Ngọc Dung đã nêu rõ những nội dung liên quan đến việc thực hiện các gói hỗ trợ cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung.

Thực hiện các chính sách an sinh xã hội và các gói hỗ trợ

Theo Bộ trưởng Bộ lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, năm 2021, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm ứng phó với dịch bệnh, phát triển kinh tế đi đôi với chăm lo phúc lợi, an sinh xã hội. Cụ thể:

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 268/NQ-UBTVQH15 ngày 06/8/2021 về việc cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết có một số nội dung khác với quy định của luật để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch COVID-19. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28/7/2021 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày 19/10/2021 về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, có hiệu lực từ ngày 01/7/2021 .

Quốc hội, Chính phủ và các địa phương đã ban hành nhiều chính sách khác nhằm hỗ trợ người dân, người lao đông và doanh nghiệp như: Cho phép tính vào chi phí các khoản chi ủng hộ, tài trợ (tiền, hiện vật) cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp (Nghị định số 44/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 của Chính phủ); gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất (Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ); tiếp tục miễn giảm 30 loại phí, lệ phí trong năm 2021; Nghị quyết của Chính phủ về hỗ trợ giảm tiền điện; hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19 (Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/9/2021 của Chính phủ); một số địa phương thực hiện hỗ trợ giá nhà trọ và giảm giá tiền nước sinh hoạt cho các hộ gia đình;…

(4) Được sự đồng ý về chủ trương của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 68) và Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (sau đây viết tắt là Nghị quyết 116). Những chính sách ban hành nhằm hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động, nhất là các đối tượng bị ảnh hưởng, tác động sâu bởi đại dịch, bao gồm cả người dân, người lao động có giao kết hợp đồng lao động và không có giao kết hợp đồng lao động, những đối tượng yếu thế, phụ nữ mang thai, trẻ em mồ côi cha, mẹ vì đại dịch,… cũng như những ngành, nghề bị ảnh hưởng nặng nề trong đại dịch như vận tải, hàng không, dịch vụ lưu trú, du lịch,…

Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP

Đánh giá kết quả đạt được của Nghị quyết số 68/NQ-CP, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, mà trực tiếp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo sát sao; các ngành, các địa phương vào cuộc triển khai quyết liệt. Việc hỗ trợ nhìn chung được triển khai nhanh chóng, kịp thời, công khai, minh bạch, đúng đối tượng.

Trên cơ sở rút kinh nghiệm từ việc triển khai các chính sách đã ban hành trước, chính sách hỗ trợ đã giảm tối đa các điều kiện, thủ tục, rút ngắn về thời gian hỗ trợ, tạo điều kiện để người sử dụng lao động và người lao động dễ dàng tiếp cận chính sách. Đặc biệt là đối với nhóm lao động tự do và đối tượng đặc thù bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch, Chính phủ quy định mức sàn tối thiểu và giao các địa phương chủ động quy định tiêu chí, tạo sự linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của địa phương, do vậy đã hỗ trợ được số lượng lớn các đối tượng thụ hưởng.

Nhiều địa phương đã chủ động sáng tạo và mở rộng các đối tượng ở các tỉnh/thành như: Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Quảng Nam, Cần Thơ,… Đặc biệt, Thành phố Hồ Chí Minh chủ động triển khai 3 gói hỗ trợ thiết thực cho người dân thành nhiều đợt, triển khai hàng triệu “túi an sinh xã hội”, nhằm thực hiện mục tiêu đảm bảo người dân có mức sống tối thiểu, không bị thiếu đói, qua đó giúp người dân yên tâm thực hiện nguyên tắc “ai ở đâu, ở yên ở đó”;..

Bên cạnh đó, các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ và các địa phương tích cực, chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết số 68, Quyết định số 23; ban hành các Kế hoạch/Quyết định và văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện; Công tác thông tin, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát được chú trọng và triển khai rộng rãi;….

Về một số tồn tại, hạn chế trong thực hiện cũng được Bộ trưởng nêu rõ như: Một bộ phận người dân, người lao động và người sử dụng lao động thuộc đối tượng thụ hưởng chưa được hưởng hoặc chậm được thụ hưởng; Nhìn chung, mức hỗ trợ còn thấp. Một số chính sách có tỷ lệ đạt thấp, như chính sách đối với đối tượng là người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, chính sách cho người sử dụng lao động vay tiền để trả lương ngừng việc và phục hồi sản xuất đạt thấp so với dự tính ban đầu; Việc triển khai thực hiện công tác xác lập hồ sơ, công tác hỗ trợ tại một số địa phương vẫn còn chậm. Một số địa phương gặp khó khăn về kinh phí, sợ sai, sợ trách nhiệm nên chậm hoặc chưa hỗ trợ đối tượng; cá biệt có nơi vẫn còn tình trạng lợi dụng dịch bệnh COVID-19 để trục lợi, bị xem xét, xử lý theo quy định pháp luật.

Trên cơ sở phân tích rõ nguyên nhân, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra 6 nhóm giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế hiện nay:

(1) Trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, mở rộng đối tượng thụ hưởng, tiếp tục đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục xác nhận, phê duyệt để người sử dụng lao động và người lao động được hỗ trợ kịp thời, đặc biệt là chính sách cho vay trả lương từ Ngân hàng Chính sách xã hội.

(2) Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, kịp thời trả lời, hướng dẫn giải đáp các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về các chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68, Quyết định số 23.

(3) Rà soát, nắm chắc tình hình đời sống người dân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn. Giao trách nhiệm cho người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương trực tiếp chỉ đạo, chăm lo công tác bảo đảm an sinh xã hội. Bảo đảm không để người dân nào thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các nhu yếu phẩm thiết yếu. Rà soát người lang thang, cơ nhỡ và các đối tượng yếu thế chưa có chính sách quy định để có biện pháp hỗ trợ kịp thời, phù hợp.

(4) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai, trước mắt lập 12 đoàn kiểm tra do Lãnh đạo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội làm trưởng đoàn đi kiểm tra tại 33 tỉnh, thành phố từ ngày 21/10 đến ngày 07/11/2021 (thành phần có đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội…), đôn đốc triển khai giám sát, đánh giá việc rà soát, lập danh sách, phê duyệt và hỗ trợ; kiến nghị, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

(5) Các địa phương khẩn trương lập danh sách, phê duyệt và hỗ trợ, nhất là hỗ trợ tiền mặt cho các nhóm đối tượng chưa được hưởng, trong đó cần đẩy mạnh việc tiếp nhận hồ sơ của người lao động đề nghị hỗ trợ hàng ngày bằng các hình thức thuận lợi nhất (qua dịch vụ bưu chính, Cổng dịch vụ công quốc gia, trực tiếp, trực tuyến, email,…) để đảm bảo các yêu cầu phòng, chống dịch COVID-19, đồng thời linh hoạt trong việc giảm thời gian giải quyết hồ sơ đề nghị hỗ trợ của người lao động.

(6) Bộ Tài chính cấp kinh phí kịp thời và hướng dẫn các địa phương bố trí kinh phí để thực hiện chi trả sớm cho các đối tượng đã được phê duyệt danh sách hỗ trợ, tránh tình trạng người dân chờ đợi, dẫn tới bức xúc, phản ánh thông tin trên báo chí, mạng xã hội,…

Triển khai Nghị quyết 116/NQ-CP

Về điều chỉnh giảm đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN): Cơ quan bảo hiểm xã hội đã thực hiện xong việc gửi thông báo điều chỉnh mức đóng vào quỹ BHTN cho 363.600 đơn vị sử dụng lao động, tương ứng 9,68 triệu lao động.

Về hỗ trực tiếp bằng tiền cho người lao động: Đến ngày 07/11/2021, đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho trên 9,41 triệu lao động thuộc đối tượng đang tham gia BHTN và trên 654.600 người đã dừng tham gia (bằng 87,43% số đề nghị hưởng).

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội khẳng định, đây là chính sách chưa có tiền lệ nhằm hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong phòng, chống dịch, qua triển khai nhận được sự quan tâm, ủng hộ lớn của đối tượng và dư luận xã hội. Đây là chính sách vừa đảm bảo nguyên tắc đóng – hưởng, công bằng; vừa có sự chia sẻ rủi ro; thể hiện vai trò “giá đỡ” của quỹ BHTN cho chủ sử dụng lao động và người lao động. Thủ tục đơn giản, thuận tiện, người lao động và người sử dụng lao động nhận được sự hỗ trợ nanh chóng, kịp thời, chủ yếu hỗ trợ qua tài khoản và trên cơ sở dữ liệu đã có.

Việc hỗ trợ đang được tiến hành khẩn trương, tuy nhiên hiện nay còn một số lượng nhỏ đơn vị đang rà soát danh sách lao động thuộc đối tượng hưởng hỗ trợ do khó khăn trong việc xác định các đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 1 Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg. Để đảm bảo việc giải quyết và chi trả hỗ trợ đúng đối tượng, hạn chế tối đa các nguy cơ trục lợi, cơ quan BHXH cần có thời gian nhất định để kiểm tra, đối chiếu chặt chẽ các điều kiện về thông tin cá nhân với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; thông tin về tài khoản ngân hàng của người lao động.

PT

Nguồn: thethaovietnamplus.vn

spot_imgspot_img
spot_img

MỚI NHẤT

spot_img